Sức khỏe tinh thần thông qua hình thức thư giãn là một phần quan trọng của sức khỏe tổng quát và tác động không nhỏ đến sức khỏe thể chất. Việc tham gia những hoạt động giải trí thư giãn có thể giúp bạn kiểm soát stress tốt hơn và giảm suy nhược. Thư giãn cón giúp mang lại cơ hội để tìm lại sự cân bằng trong cuộc sống. Nó đồng thời giúp bạn tiêu khiển thời gian một cách hữu ích, nhất là khi bạn đang ngập đầu trong công việc.
Tham gia hoạt động giải trí cùng gia đình cũng có ích cho trẻ nhỏ, bởi vì bạn đang làm gương cho con cái bằng việc quản lý tốt stress và những cảm xúc. Hơn thế, thường xuyên tham gia hoạt động giải trí còn giúp giảm suy nhược vì thực tế, chỉ cần nghĩ đến việc tận hưởng thời gian thư giãn ngoài trời cũng đủ làm tâm trạng bạn thư thái hơn. Đặc biệt thư giãn thể chất có liên quan đến việc cải thiện lòng tự trọng. Thêm vào đó, bạn sẽ cảm thấy hài lòng về cuộc sống của mình khi thường xuyên tham gia chúng.
Thực tế, trong một nghiên cứu trên 2.000 người Mỹ tham gai những hoạt động giải trí thư giãn có 90% người thừa nhận, họ cảm thấy hài lòng về sức khỏe của mình. Trái ngược với 60% người không tham gia những hoạt động như vậy, họ không cảm thấy hài lòng về sức khỏe và thể hình của mình.
(Theo Menshealth)
THÙY NHƯ
Có bao giờ bạn cảm thấy hồi hộp, khó thở, đau nhức khắp người… và tin chắc mình đang mắc một căn bệnh nào đó trong khi các thăm khám và xét nghiệm của bác sĩ đều khẳng định sức khỏe của bạn tốt!? Sự thật có thể bạn đã mắc bệnh “tưởng”. Việc tưởng tượng mình bị bệnh cũng nguy hiểm không kém bệnh thật nếu không biết cách khắc phục.
Bệnh từ ý nghĩ mà ra
“Tôi sắp chết rồi bác sĩ ơi” - đó là câu than thở mà các bác sĩ thường nghe ở người bị bệnh tưởng (hypochondria - hay còn gọi là triệu chứng lo sợ quá mức cho sức khỏe). Đó là những người luôn bị ám ảnh với ý nghĩ rằng họ đang hoặc sẽ mang trên mình một căn bệnh nào đó. Mặc dù ai trong chúng ta cũng đã đôi lúc nghĩ đến việc mình có thể mắc bệnh nhưng ở những người mắc bệnh tưởng thì ý nghĩ đó chiếm hữu suốt một thời gian dài trong cuộc đời của họ.
Những người này thường tự dày vò mình và cả người khác với các chứng bệnh mà họ không hề có. Đối với họ, một cơn nhức đầu nhẹ là họ nghĩ ngay rằng có thể mình bị u não; hơi tức ở ngực là cho rằng mình bị tai biến tim, đau nhẹ ở chân là tin chắc mình bị nghẽn tĩnh mạch… Những ý nghĩ về bệnh tật này dai dẳng bám lấy trí não họ mặc cho các bác sĩ đã ra sức trấn an và tất cả các kết quả xét nghiệm, tầm soát đều khẳng định họ hoàn toàn khỏe mạnh.
Nghiên cứu của các chuyên gia tâm thần học với rất nhiều trường hợp bệnh nhân đến khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế cho thấy: ngày càng có nhiều người có những biểu hiện lo sợ quá đáng về sức khỏe của mình. Phần lớn các bệnh mà họ kể với bác sĩ là do họ tự nghĩ ra. Chỉ có 16% bệnh nhân đi bác sĩ vì những căn bệnh thông thường là thật sự có vấn đề về sức khỏe. 84% còn lại không hề có căn nguyên rõ rệt nào về tình trạng bệnh tật.
Theo bác sĩ tâm thần Brian Fallon, người đã nghiên cứu những người bị bệnh tưởng từ hơn 15 năm nay thì đây là một căn bệnh thường gặp (ước tính có khoảng 5% dân số mắc) bởi nó xuất phát từ những va chạm đời thường. Chỉ cần nghe đài báo nói về một căn bệnh nào đó là người bị bệnh tưởng trở nên rất nhạy bén với các triệu chứng và nghĩ ngay đến việc mình có lẽ cũng đang bị bệnh và chạy vội đến khám bác sĩ. Trong nhiều trường hợp, các bác sĩ đã phải “bó tay” với những con bệnh như vậy!
Quả thật, rất nhiều bác sĩ đã gặp phải khó khăn trong chẩn đoán trước một bệnh nhân mắc bệnh tưởng bởi nhiều triệu chứng bệnh có thể gây ra bởi stress, đầu óc và thái độ của bệnh nhân. Chẳng hạn, lấy trường hợp một bệnh nhân đến gặp bác sĩ với các triệu chứng trầm cảm. Liệu anh ta đang bị một rối loạn tâm thần với những triệu chứng y học hay anh ta đang bị một rối loạn y học với những triệu chứng tâm thần?
Các bác sĩ không thể nào biết được cho tới khi họ thực hiện một quá trình theo dõi y khoa và tâm lý tỉ mỉ. Vì thế, bác sĩ Brian Fallon lưu ý rằng, nếu thấy bệnh nhân của mình luôn mồm khẳng định mình đang mắc một bệnh nào đó trầm kha cho dù mọi kết quả thăm khám đều xác định họ không có bệnh thực thể thì các bác sĩ nên nghĩ ngay đến việc có thể người đó đã mắc bệnh hoang tưởng nghi bệnh - một dạng rối loạn tâm thần ám ảnh, và hãy nhanh chóng chuyển họ sang bác sĩ chuyên khoa tâm lý.
Bệnh tưởng do đâu mà có?
Chính xác bệnh tưởng là một cái vòng luẩn quẩn. Nó bắt đầu từ những căng thẳng thường nhật trong cuộc sống của một người. Sự căng thẳng làm thay đổi tâm trạng và thái độ của anh ta đối với cuộc sống. Thay đổi trong nhận thức trí tuệ này gây ra sự khó chịu cho cơ thể. Những khó chịu lại có thể lan đi khắp cơ thể - từ ngứa ngáy kinh niên trên da cho tới những chứng đau nửa đầu, đau khắp mình mẩy. Anh ta bắt đầu tin rằng mình đang bị nhiễm một loại vi trùng nào đó, hoặc thậm tệ hơn, đang phát bệnh ung thư hay một căn bệnh nan y đe dọa đến tính mạng.
Điều này càng làm anh ta căng thẳng hơn. Cuối cùng đi hết bác sĩ này đến bác sĩ khác và thất vọng khi nghe rằng chẳng có gì không ổn với sức khỏe của anh ta cả (tại sao lại không vui mừng chứ?). Anh ta kết luận rằng, tất cả các bác sĩ đều dở ẹc và tin chắc 100% là anh ta sắp chết. Và thế là anh ta càng khiến bệnh trầm trọng hơn.
Bệnh tưởng cũng có nguồn gốc từ cách sống của từng gia đình. Chẳng hạn cha mẹ bao bọc con kỹ quá, cứ rối lên khi con mới chỉ... hắt hơi, sổ mũi. Điều này khiến trẻ thấy chỉ cần làm bộ làm tịch một chút là được thỏa mãn mọi nhu cầu. Và thế là xuất hiện thế hệ các cậu ấm, cô chiêu hễ cứ hơi gặp khó khăn là đã suy sụp và dễ rơi vào bệnh tưởng.
Đối mặt với bệnh tưởng Trong một thời gian dài, bệnh tưởng được coi là không thể chữa được. Tuy nhiên gần đây khoa học đã tìm ra nhiều cách chữa trị căn bệnh này. Điểm chung của các phương pháp chữa bệnh tưởng là tìm cách giúp cho người bệnh hết các triệu chứng bất thường không thể giải thích được và giải phóng khỏi cảm giác lo lắng về bệnh tật.
Nghiên cứu cho thấy, những lo lắng quá mức có thể được giải tỏa bởi một số loại thuốc an thần hoặc các liệu pháp tâm lý. Thực tế đã chứng minh liệu pháp tâm lý hành vi và một số các chất ức chế tái hấp thu serotonin (ví dụ fl uoxetine, paroxetine) có khả năng chữa bệnh tưởng một cách hiệu quả. Liệu pháp tâm lý, thường là thông qua trò truyện, cung cấp thông tin, giúp người bệnh nhận ra, chấp nhận và tìm cách loại trừ những triệu chứng khó chịu trong cơ thể cũng như các lo lắng về bệnh tật. Liệu pháp này cho thấy có hiệu quả trong việc làm giảm mức độ và tần suất xuất hiện của các triệu chứng bệnh tật ở người bệnh.
Các chất ức chế làm giảm đi sự lo lắng quá mức thông qua việc điều chỉnh mức độ truyền thông tin của các nơron thần kinh cũng cho thấy có tác dụng làm giảm căng thẳng, lo âu từ đó cải thiện bệnh.
Với người bệnh, những cách sau có thể giúp ích trong việc làm giảm đi bệnh tưởng: hạn chế hoặc tránh việc tự tìm hiểu các thông tin về bệnh trên internet, hay sách báo và tránh tự thăm khám cho chính mình, bởi vì nó sẽ làm tăng lo lắng là mình mắc bệnh; duy trì một lối sống lành mạnh, bao gồm ngủ đủ giấc vào buổi tối, ăn uống cân đối, hợp lý, và một quan niệm sống cởi mở, tích cực; tập luyện những kỹ thuật thư giãn, ví dụ như hít thở sâu, thiền, hay những cách khác có thể làm giảm lo âu và stress; cắt đứt các nỗi lo âu bằng các hoạt động đòi hỏi phải tập trung cao và quên đi bệnh tật như chơi đánh cờ, tập thể dục, đi dạo, nói chuyện phiếm với bạn bè; nghĩ đến những cách giải thích khác cho những triệu chứng bất thường mà mình cảm thấy, ví dụ như đó là do tác động của stress hay là kết quả của những thay đổi tự nhiên bình thường của cơ thể.
Bệnh tưởng khởi đầu là sự “ám thị bệnh” khiến chúng ta mắc bệnh thật, vì thế rèn luyện tâm lý để vững vàng, có bản lĩnh trong cuộc sống là cách tốt nhất để chống lại bệnh tưởng.
ANH THƯ (Theo Body Newsletter)
SK&ĐS
Cái nhìn mới về sự cô đơn
Cô đơn thường bị người ta sợ hãi, thậm chí bị chê bai nói xấu nhưng khả năng biết sống cô đơn đôi khi lại trở thành một lối sống tích cực.
Bạn hãy thử tưởng tượng xem khi bạn sống 4 ngày đêm liền trong một căn nhà ở vùng quê mà không có điện thoại di động, không tivi, không radio, không có một ai, thậm chí không có cả con vật mà bạn yêu quí.
Đây là một chế độ mà nhà trị liệu tâm lý Herve Magnin đã tự bắt buộc mình như vậy để suy ngẫm thực sự về sự cô đơn và đưa ra những trải nghiệm của bản thân trong một cái nhìn về “sự cô đơn tích cực”. Đôi khi thời gian khổ hạnh này có thể được so sánh với những cuộc phiêu lưu của Robinson Cruxô trên đảo hoang, nhưng trong thời đại hiện nay cái mà được cho là quan trọng đó là sự liên lạc và thông tin thì trải nghiệm trên có thể đóng vai trò một cuộc phiêu lưu tuyệt vời mang ý nghĩa thúc đẩy tác giả nhận biết được các trải nghiệm khác nhau của sự cô đơn.
Mặt khác, đối với tất cả những ai vừa thoát ra khỏi sự cô đơn thường cảm thấy sợ hãi. Một thăm dò mới đây cho thấy cô đơn được coi là vấn đề của 78% số người được phỏng vấn và cô đơn được coi như là một sự đe dọa và cuối cùng sự đấu tranh để chống lại cô đơn có vẻ được coi như là một vấn đề mang tính quốc gia. Do đó có thể nói, cô đơn là một điều không thú vị gì. Người ta thường hay lầm tưởng cô đơn với sự cách ly. Nhà xã hội học Eric Donfu người sáng lập ra phòng nghiên cứu những biến đổi của xã hội hiện đại cho rằng: “Cô đơn luôn luôn được phán xét theo thước đo mệnh lệnh cần được chế ngự trong cuộc sống lứa đôi và những hành động khi thực hiện một mình thường được cho là đáng ngờ”.
Tuy nhiên những khoảng thời gian cô đơn được xem là những ốc đảo xa hoa trong sự tồn tại của chúng ta, khi mà cuộc sống luôn luôn quá ư là bận rộn. Tất nhiên phải có những ngoại lệ và cần những lúc một mình để suy ngẫm đưa ra các quyết định quan trọng, để chăm sóc bản thân và thậm chí là để học cách yêu đương. Stephanie, thành viên trong ban giám đốc của một tổ hợp lớn đã trải qua cảm giác cô đơn như vậy. Bà nói, từ một năm nay vợ chồng bà đã gặp trục trặc “chúng tôi gắn bó với nhau nhưng chúng tôi không thể chịu đựng nhau hằng ngày”.
Mệt mỏi vì những cuộc cãi vã thường xuyên, họ đã quyết định chia tay mỗi người một nơi. Stephanie bắt đầu đi du lịch một mình trong 10 ngày tại Nhật Bản, nơi mà bà tin rằng sẽ tìm lại được chính mình. “Tôi đã thưởng thức những cảnh đẹp tuyệt vời, tôi mang theo một quyển nhật kí và lúc đó tôi hiểu ra rằng tôi có nhu cầu có những cảm xúc hoàn toàn riêng tư một mình”, bà nói. Tiếp theo bà sống hơn 10 tháng một mình và trong thời gian này bà tham gia một trị liệu tâm lý và nhận ra tại sao mình không thể đi đến việc chung sống với một người khác”. Thời gian nghỉ ngơi thư giãn này đã dẫn đến một lối thoát tích cực. Sau khi mỗi người đã dám vùi mình trong sự cô đơn, Stephanie và chồng bà đã trở nên hiểu nhau và từ đó họ thỏa thuận với nhau sẽ sinh một đứa con.
Học cách... cô đơn
Câu chuyện có hồi kết tốt đẹp này đã khẳng định lý thuyết của Eric Dofu, theo ông “cô đơn tự nó không phải là điều xấu. Đó là cái mà người ta có được theo đúng nghĩa từ sự cô đơn của bản thân chúng ta”. Theo nhà xã hội học này, cô đơn có lợi khi mà người ta chìm đắm trong đó để dẫn đến một thay đổi cơ bản sâu sắc. Bởi vì trong trải nghiệm cô đơn khi mà người ta không chạy trốn nó, người ta sẽ phát hiện ra rằng mình không phải không có khả năng. “Trong khi chúng ta tự lột xác, sự cô đơn thúc đẩy chúng ta đi đến phát hiện ra những nguồn lực nội tâm của chúng ta”- ông nói.
Vậy thì điều đó có ý nghĩa khởi đầu khi ta ở trong tình trạng cô đơn và sự khởi đầu này sẽ xảy ra trong một thời gian dài hay thậm chí trong một vài khoảng thời gian ngắn ngủi nào đó mà mỗi ngày ta có thể thu xếp dựa trên một thời gian biểu dầy đặc các cuộc hẹn và các mối quan hệ ràng buộc.
Thông thường thì sự khởi đầu này diễn ra nhờ quá trình học hỏi. Với những người không quen cô đơn từ bé, thì tất nhiên phải có sự làm quen theo một cách khác. “Đi vào thế giới cô đơn là kết quả của một quyết định can đảm”, Herve Magnin viết. Bạn có sẵn sàng lắng nghe cơ thể mình hay không, đón nhận các cảm xúc của mình và sẵn sàng khám phá những suy ngẫm của mình cho dù chúng đôi khi đó là những ý nghĩ tiêu cực?”
Những cuộc đi du lịch một mình, những lúc ở ẩn, lúc đọc sách, thậm chí cả lúc làm vườn cho phép chúng ta làm quen với tình trạng tu luyện khổ hạnh sống động khi mà điều này đã được quyết định và tự nguyện. Với Eric Donfu đó là những cái được lớn nhất trong thời gian tự do của chúng ta mà ông tóm tắt trong 3 chữ D: “distraction, delassement, developpement interieur” (có nghĩa là: thư giãn, nghỉ ngơi và phát triển nội tâm”).
Chúng ta bị cuốn hút vào nhịp sống ngày càng ít tự nhiên và được duy trì trong một sự liên hệ bắt buộc và trao đổi thông tin ở mọi góc độ thông qua các công nghệ hiện đại mới, mà hơn bao giờ hết chúng ta sẽ có lợi khi học cách chung sống với sự cô đơn của chính mình. Đây là một ý tưởng đã gợi lại tính thời sự tư tưởng của nhà triết học Blaise Pascal qua phát biểu nổi tiếng của ông: “Tất cả mọi đau khổ của con người có nguồn gốc từ một điều duy nhất đó là họ không biết ngồi lại nghỉ ngơi thư giãn trong căn phòng của mình”.
BS. Lê Đào Nghĩa (Theo Le Figaro, 2011)
Sức khỏe là vốn quý nhất của con người. Có sức khỏe là có tất cả, không sức khỏe là không có gì. Chung thân vô bệnh là điều ước mơ từ ngàn xưa của con người. Xin giới thiệu 7 bí quyết giúp con người sống vui khỏe.
1. Sống lạc quan ít phiền muộn
Tất cả những yếu tố tâm lý bất ổn như thất vọng, tinh thần sa sút, bi lụy, đố kỵ, lo lắng, bi quan nếu lặp đi lặp lại hoặc kéo dài đều gây tổn hại đến sức khỏe. Nhiều nghiên cứu cho thấy, người sống lạc quan giúp giảm được tỷ lệ chết sớm xuống 50% so với người bi quan. Kết quả rất đáng quan tâm: người sống lạc quan yêu đời ít bị stress hơn, biết cách xoay xở trước những bất hạnh theo hướng tích cực nên từ đó sức khỏe sẽ ít bị tổn hại hơn. Và, người sống lạc quan có huyết áp thấp hơn người bi quan.
2. Đừng ngủ quá giấc (ngủ đủ)
Giấc ngủ giúp phục hồi thần kinh, chống mệt mỏi, tái tạo sức khỏe. Khi đi ngủ thì bỏ ưu phiền để có giấc ngủ ngon, ngủ sâu, ngủ đủ giấc, đủ giờ. Thật ra, ngủ quá nhiều không có lợi cho sức khỏe mà còn giảm tuổi thọ trung bình. Các nghiên cứu khoa học cho thấy, những người ngủ nhiều hơn 8 giờ mỗi đêm có tỷ lệ chết sớm cao hơn người ngủ bình thường! Nhưng ngủ ít hơn 4 giờ cũng chẳng sống thọ được bao lâu. Tóm lại, những người có giấc ngủ trong khoảng 6 - 7 giờ mỗi đêm có tuổi thọ khá cao.
3. Vận động thân thể (đi bộ nhiều)
Hãy dậy sớm và tập thể dục! Tập thể dục không chỉ giúp duy trì thể trọng lý tưởng mà còn có lợi cho hoạt động tim mạch, củng cố xương và làm tăng endorphin, hormon năng lượng của cơ thể. Không chỉ có thế, thể dục còn làm cho cuộc sống thú vị hơn, loại bỏ stress và nhiều bệnh tật nguy hiểm. Thực tế chứng minh, những người tích cực vận động cơ thể sẽ khỏe mạnh hơn và sống thọ hơn. Trong đó, đi bộ là phương pháp luyện tập sức khỏe tốt nhất đối với mọi lứa tuổi. Khoa học đã tổng kết, đi bộ làm cho động mạch từ cứng biến thành mềm, tuần hoàn máu tăng, khỏe gân cốt, đồng thời làm giảm lượng mỡ và cặn bã trong máu. Mỗi lần đi bộ ít nhất 3km, mỗi tuần đi bộ ít nhất 5 lần.
4. Cười nhiều
Tiếng cười là đặc điểm riêng chỉ con người mới có, là một yếu tố sức khỏe, một phương pháp trị liệu có hiệu quả. Nhiều trung tâm y học trên thế giới đã áp dụng phương pháp trị liệu: tiếu liệu pháp - điều trị bằng tiếng cười. Trong dân gian thường nói “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”. Cười làm giảm các hormon gây stress như adrenalin và cortison, đồng thời làm tăng tiết endorphin - hormon kích thích tuần hoàn máu. Cười là bạn tốt của trái tim. Cười đẩy lùi trầm uất. Cười giúp con người trẻ lâu. Không thể phủ nhận chân lý: người coi trọng tiếng cười sẽ sống lạc quan hơn, từ đó tuổi thọ được kéo dài hơn những người tối ngày chỉ mang bộ mặt sầu thảm!
5. Giảm cân
Đối với những người thừa cân hay béo phì, cuộc sống là một quả bom hẹn giờ! Những người béo phì có nguy cơ mắc bệnh tim rất cao và một số loại ung thư, cũng như phát triển bệnh đái tháo đường týp 2. BS. David Fein, Giám đốc y khoa Trung tâm Nghiên cứu tuổi thọ Princeton ở New Jersey (Mỹ), nói: “Cách tốt nhất để giảm số cân thừa là cắt bớt lượng thực phẩm đưa vào cơ thể. Nhiều người nghĩ tập thể dục có thể giảm cân, nhưng thật ra nó chỉ có thể duy trì số cân đã có”.
6. Tĩnh tâm
Sự tĩnh tâm giúp con người có tâm trạng thư thái, yên bình hơn. 15 phút tĩnh tâm gây hiệu quả thư giãn đầu óc nhiều hơn 1 giờ ngủ sâu. Hoặc là, bắt đầu một ngày mới với bài tập tĩnh tâm khoảng 2 phút thôi cũng đem đến các lợi ích không nhỏ. Ngồi thẳng người và cố gắng giữ “trống” đầu óc bằng cách chỉ tập trung nghĩ đến một từ duy nhất nào đó. Nên xây dựng một nhân sinh quan đúng đắn phù hợp với lý tưởng cao đẹp. Tránh những tính toán vụn vặt, những ham muốn vật chất quá mức, ham muốn danh lợi, địa vị, vị kỷ, những lo âu căng thẳng triền miên rất có hại cho sức khỏe.
7. Giảm stress
Stress là một khái niệm bao gồm mọi tác nhân có khả năng gây ra trạng thái căng thẳng về tinh thần và từ đó gây ra những biến động từ nhẹ đến nặng đối với cơ thể con người. Mỗi người đều bị stress với mức độ nặng nhẹ khác nhau, nhưng không phải ai cũng biết quản lý nó! Chìa khóa là phải nhận thức được các vấn đề lớn trong đời sống của bạn và biết cách giảm nhẹ chúng. Stress dai dẳng sinh ra lượng cortisone tăng cao, làm suy yếu hệ miễn dịch. Một nghiên cứu của Trường đại học Y khoa John Hopkins (Mỹ) thực hiện năm 2009 cho thấy, những người tỏ ra giận dữ khi gặp stress dễ bị bệnh tim gấp 3 lần, thậm chí 6 lần nếu ở tuổi 55 so với những người ít cáu giận. Sở dĩ như vậy vì khi cáu giận huyết áp dễ tăng cao.
- Nền tảng của sức khỏe là: ăn uống hợp lý, vận động vừa sức, giảm rượu, bỏ thuốc lá, cân bằng tâm lý. Nếu thực hiện 4 nền tảng về sức khỏe nói trên có thể giảm 55% bệnh đái tháo đường, 1/3 bệnh ung thư, 75% bệnh xuất huyết não… và kéo dài tuổi thọ bình quân từ 10 năm trở lên.
BS. Đỗ Minh Hiền
Nghiến răng là hiện tượng thường xuyên nghiến chặt hàm răng, có thể phát ra tiếng ken két. Nguyên nhân gây nghiến răng do khớp cắn (giữa răng hàm trên và hàm dưới) bị lệch; Lo âu, căng thẳng hay bị stress; Kích động hay xúc cảm quá mức; Do tác dụng phụ của một số thuốc thần kinh như thuốc chống trầm cảm... Thường người bệnh không biết mình có tật nghiến răng vì thường xảy ra lúc ngủ. Bệnh nhân được phát hiện khi đi khám vì hậu quả của nghiến răng gây ra là mòn răng. Tật nghiến răng có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi.
Tác hại của tật nghiến răng
Do lực sử dụng trong động tác này lớn gấp nhiều lần lực phát sinh khi nhai nên tật nghiến răng không chỉ tạo ra âm thanh khó chịu cho người xung quanh mà còn gây mòn răng. Tình trạng này nếu kéo dài có thể làm răng bị mất hết lớp men, lộ ra lớp ngà vàng hơn, bị ê buốt, nứt gãy các múi răng, lung lay hoặc rụng, sứt miếng hàn, gãy các hàm giả tháo lắp hoặc cố định. Việc răng bị mòn sẽ làm giảm kích thước tầng dưới mặt, làm người bệnh trông già hơn.
Nghiến răng nhiều có thể làm các cơ hàm bị co thắt, người bệnh bị mỏi, đau các cơ hàm. Do các cơ hoạt động quá mức có thể bị phì đại cơ cắn ở cả hai bên, làm cho khuôn mặt bị mất cân xứng hoặc có dạng vuông, đồng thời tác động lên khớp gây ra những tổn thương cấu trúc khớp như rối loạn khớp thái dương - hàm. Tùy mức độ tổn thương khớp mà bệnh nhân sẽ có nhiều biểu hiện khác nhau: đau khớp hàm, có tiếng kêu lụp cụp khi há miệng hoặc khi đang nhai, rối loạn vận động há miệng lệch, há miệng khó...
Với trẻ em, nếu khoảng thời gian nghiến răng ở trẻ không kéo dài nhưng có thể làm ảnh hưởng đến sự phát triển của răng. Răng sẽ bị mòn làm cho những thức ăn có axit và đường bám vào răng nhiều hơn và dễ gây sâu răng.
Điều trị tật nghiến răng thế nào?
Điều trị tật nghiến răng nhằm ngăn ngừa tổn thương vùng răng miệng và giảm đau các cơ nhai và cơ vùng mặt. Tùy theo nguyên nhân nghiến răng có phác đồ điều trị thích hợp:
Nếu bị stress: Điều trị chủ yếu bằng tâm lý liệu pháp và thư giãn (thể dục, thiền tâm...). Có thể sử dụng thuốc gây giãn cơ để tạm thời giảm co thắt cơ hàm. Việc sử dụng thuốc phải theo chỉ định của bác sĩ.
Do cắn khớp cần đến khám bác sĩ răng hàm mặt, có thể sẽ phải làm chỉnh hình răng để có khớp cắn tốt hơn, hoặc bác sĩ sẽ có những dụng cụ giúp bảo vệ răng tránh tổn thương trong trường hợp nghiến răng quá nặng. Hiện nay, dụng cụ giúp hạn chế tật nghiến răng là mang máng nhai. Dụng cụ này có tác dụng ngăn chặn sự phá hại răng, làm giảm tình trạng đau cơ và khớp thái dương - hàm.
Nghiến răng do những tác dụng phụ của thuốc: Cần ngưng ngay thuốc hoặc dùng thêm thuốc khác để giảm tác dụng phụ này tùy theo chỉ định của bác sĩ.
Ở trẻ em thường liên quan đến sự tăng trưởng và phát triển của trẻ: răng phát triển không đều, mọc răng... Hầu hết trẻ bị tật nghiến răng ở độ 3-10 tuổi, khoảng 13 tuổi phần lớn trẻ tự hết tật nghiến răng.
BS. Huy Thái
Sức khỏe con người gồm có hai vấn đề rõ ràng: đó là sức khỏe về thể chất và sức khỏe về tinh thần. Tuy là hai mặt của một vấn đề nhưng chúng gắn bó chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, bệnh lý của cơ thể có thể dẫn đến bệnh lý tâm thần và ngược lại.
Những thay đổi về nhận thức
Những quan niệm về bệnh tâm thần của người làm trong ngành y và người dân đã thay đổi nhiều. Đối với những người làm việc trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tâm thần, họ ngày càng yêu nghề hơn, tâm huyết với nghề hơn. Số lượng những người tình nguyện đứng trong hàng ngũ chăm sóc sức khỏe tâm thần cũng ngày càng nhiều. Những người có nguyện vọng học nhằm nâng cao trình độ ở trong nước cũng như ở nước ngoài tăng lên. Hợp tác trong các lĩnh vực tâm thần học với những nước có nền y học tiến bộ trên thế giới ngày càng được mở rộng như Pháp, Đức, Thụy Điển... tạo điều kiện để nền tâm thần học Việt Nam hội nhập được với tâm thần học thế giới. Với người dân, quan niệm về bệnh tâm thần của họ đã có nhiều thay đổi. Họ đã nhận thấy được rằng bệnh tâm thần là bệnh có căn nguyên rõ ràng chứ không phải là do ma quỷ, thần thánh gây ra. Chính vì vậy khi có vấn đề về tâm thần họ tìm đến những cơ sở khám chữa bệnh chứ không còn đi đến thầy cúng để trừ ma tà như trước kia. Quan niệm về bệnh tâm thần cũng đã được mở rộng gồm những bệnh lý như bệnh trầm cảm, bệnh rối loạn lo âu, những bệnh liên quan đến sang chấn tâm lý, stress, bệnh mất ngủ, bệnh rối loạn dạng cơ thể, rối loạn ăn uống, chán ăn tâm thần làm cho những người có những biểu hiện như đau đầu, buồn nôn, mất ngủ, hay hồi hộp, trống ngực, buồn chán, bi quan trước kia thường đi khám ở những chuyên khoa khác thì nay họ đã sớm tìm gặp bác sĩ chuyên khoa tâm thần và hiệu quả điều trị tốt hơn.
Và những tiến bộ
Trước kia, tâm thần học gần như có sự tách biệt với những chuyên ngành khác của y học thì ngày nay khoảng cách đó đã thu hẹp dần và bệnh lý tâm thần có thể thấy và được nhận ra ở người bệnh có những bệnh lý khác, được điều trị kết hợp làm cho tình trạng sức khỏe của người bệnh ngày một tốt hơn. Bệnh lý trầm cảm, lo âu có thể thấy ở những người bệnh bị tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp, những người già mắc bệnh mạn tính như đái tháo đường, viêm đa khớp dạng thấp. Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về mối quan hệ giữa tai biến mạch máu và trầm cảm, nhồi máu cơ tim và trầm cảm. Đặc biệt là mối quan hệ giữa bệnh lý tâm thần và thời kỳ thai sản của phụ nữ như những bệnh lý trầm cảm sau sinh, loạn thần liên quan đến thời kỳ thai sản... đã được tập trung vào nghiên cứu. Tâm thần học ở lứa tuổi người già, trẻ em cũng được quan tâm hơn, tạo ra những chuyên ngành sâu trong tâm thần học.
Về mặt dược lý học, việc ứng dụng nhiều loại thuốc mới trong điều trị đã giúp bệnh nhân tâm thần mạn tính cải thiện tốt về hiệu quả điều trị, tuân thủ điều trị và hạn chế được những tác dụng không mong muốn của thuốc.
Một mặt quan trọng trong tâm thần học không thể thiếu được trong quá trình hội nhập với nền tâm thần học thế giới đó là lĩnh vực điều trị về tâm lý học. Hiện nay tại Viện Sức khỏe tâm thần Bệnh viện Bạch Mai đã có một phòng điều trị riêng về tâm lý liệu pháp bao gồm các liệu pháp tâm lý cá nhân, tâm lý nhóm, thư giãn luyện tập... Những chương trình hợp tác với nước ngoài về y học tâm thể đem lại các kỹ thuật mới về điều trị tâm lý như kỹ thuật balint, kỹ năng giao tiếp giữa bệnh nhân thầy thuốc, kỹ năng phỏng vấn bệnh nhân...
Tuy nhiên, để phát triển tốt hơn nữa, ngành tâm thần học rất cần sự quan tâm, hợp tác của toàn xã hội.
BS. TRỊNH THỊ BÍCH HUYỀN (Bệnh viện Bạch Mai)
Thời tiết chuyển mùa, nhiều người cảm thấy mệt mỏi, uể oải vì chưa thích nghi với khí hậu. Nhưng mệt mỏi do thời tiết sẽ hết mau. Tuy nhiên, cũng còn có một chứng bệnh gọi là hội chứng mệt mỏi kéo dài mà khi chuyển mùa cũng làm bệnh nặng hơn. Mời bạn đọc tìm hiểu hội chứng mệt mỏi kéo dài trong bài viết sau đây.
Mệt mỏi sau cơn bệnh
Hội chứng mệt mỏi kéo dài (CFS) là một rối loạn phức tạp, điển hình là tình trạng bệnh nhân rất mệt mỏi, không cải thiện được khi nghỉ ngơi tại giường dẫn đến hoạt động thể lực hoặc tâm thần kém đi. Bệnh có thể xuất hiện ngay sau nhiễm khuẩn, cảm lạnh, viêm phế quản, tăng bạch cầu đơn nhân, viêm gan hoặc bệnh đường ruột..
Phát bệnh sau một stress hoặc phát bệnh từ từ mà không có nguyên nhân rõ ràng. Bệnh có biểu hiện giống cúm, có thể làm tiêu hao năng lượng và đôi khi kéo dài nhiều năm. Những người trước đây rất khỏe mạnh và sinh lực dồi dào có thể rất mệt mỏi, yếu ớt và đau đầu cũng như đau khớp, đau cơ và hạch bạch huyết.
Cho đến nay, người ta vẫn không biết được nguyên nhân của bệnh, nhưng có một số bệnh có liên quan đến việc phát sinh mệt mỏi là: thiếu máu do thiếu sắt; hạ đường huyết; dị ứng với các yếu tố môi trường; nhiễm khuẩn lan rộng như tăng bạch cầu đơn nhân; rối loạn chức năng hệ miễn dịch; thay đổi nồng độ hormon; hạ huyết áp nhẹ, kéo dài. Tuy nhiên, nhiều trường hợp bệnh không rõ nguyên nhân.
Biểu hiện bệnh
Hội chứng mệt mỏi kéo dài có các triệu chứng giống với các bệnh nhiễm virut nhưng kéo dài trong nhiều tháng hoặc nhiều năm. Bệnh có 8 triệu chứng nguyên phát là: mất trí nhớ hoặc mất tập trung, đau họng, hạch bạch huyết ở cổ và nách đau và sưng nhẹ, đau cơ không rõ nguyên nhân, đau di chuyển từ khớp này sang khớp khác mà không sưng hoặc đỏ, đau đầu theo một mức độ mới, rối loạn giấc ngủ, rất mệt sau tập luyện bình thường hoặc gắng sức.
Theo nhóm nghiên cứu hội chứng mệt mỏi kéo dài quốc tế và Trung tâm Phòng chống bệnh (CDC) Hoa Kỳ thì một người có tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng mệt mỏi kéo dài là bị mệt mỏi kéo dài bằng hoặc nhiều hơn 6 tháng và có ít nhất 4 trong số 8 triệu chứng nguyên phát.
Mặt khác, người bị hội chứng này cũng có các triệu chứng khác bao gồm: đau bụng, không dung nạp rượu, trướng bụng, đau ngực, ho kéo dài, tiêu chảy hoặc táo bón, hoa mắt, mắt và miệng khô, đau tai, nhịp tim không đều, đau hàm, buồn nôn và nôn ọe vào buổi sáng, ra mồ hôi về đêm, thở gấp, cảm giác ngứa, sút cân, các rối loạn tâm lý như trầm cảm, dễ kích thích, lo âu và các cơn hoang tưởng.
Các triệu chứng nặng nhất trong 1-2 tháng đầu mắc bệnh. Phần lớn bệnh nhân tiến triển từ từ, mặc dù không hồi phục được sinh lực bình thường. Một số ít bệnh nhân hồi phục gần hoàn toàn, còn số ít hơn bất lực với các triệu chứng..
Chú ý trong chữa bệnh và tự chăm sóc
Trong điều trị, người ta có thể làm giảm triệu chứng bằng các phương pháp sau: xoa bóp (mát-xa) thư giãn. Bạn nên làm chậm và tránh stress tác động đến thể lực và tinh thần. Tập luyện từ từ nhưng đều đặn để ngăn ngừa hoặc giảm yếu cơ bắp do không hoạt động trong thời gian dài và cải thiện sức khỏe. Điều trị các rối loạn như trầm cảm bằng thuốc, liệu pháp hành vi hoặc kết hợp cả hai. Giảm đau bằng thuốc acetaminophen, aspirin, ibuprofen…Chống dị ứng bằng các thuốc kháng histamin, làm thông mũi. Điều trị hạ huyết áp bằng các biện pháp nâng huyết áp như ăn uống đầy đủ, uống nước trái cây, nước trà.
Bản thân mỗi bệnh nhân có thể duy trì sức khỏe bằng cách thực hiện theo các biện pháp tự chăm sóc sau đây: giảm stress với một kế hoạch nhằm tránh hoặc hạn chế những công việc phải gắng sức và stress tâm lý. Dành thời gian để thư giãn hàng ngày. Nhưng bạn đừng nghỉ việc hoặc ngừng tất cả các hoạt động vì như thế bệnh càng trầm trọng hơn là bạn vẫn hoạt động.
Ngủ đầy đủ là rất cần thiết để phục hồi sức khỏe. Bạn cần phân chia đủ thời gian để ngủ, tập các thói quen ngủ và dậy đúng giờ. Tập luyện đều đặn vì nó giúp cải thiện triệu chứng. Các bài tập như đi bộ, bơi, đạp xe và thể dục nhịp điệu, tập duỗi, tư thế đúng và thư giãn rất có ích. Đừng vận động quá sức, giữ cho các hoạt động ở mức không thay đổi. Giữ lối sống lành mạnh, ăn uống cân bằng, hạn chế dùng cà phê, không hút thuốc lá, rượu bia, nghỉ ngơi thích hợp. Đối với hầu hết bệnh nhân, các triệu chứng mệt mỏi kéo dài chỉ nặng nhất trong giai đoạn đầu của bệnh và sau đó từ từ giảm.
Theo thời gian, một số người hoàn toàn cảm thấy khỏe hơn. Được bác sĩ trợ giúp và tư vấn cảm xúc có thể giúp bạn và người thân đối phó với hậu quả và ảnh hưởng của bệnh. Bạn có thể tham gia vào nhóm trợ giúp và gặp gỡ những người bị mệt mỏi kéo dài để hoạt động nhằm cải thiện sức khỏe, giảm stress. Thử và dùng phán đoán của bản thân để xác định điều gì là tốt nhất đối với bạn.
Phòng bệnh: do chưa biết nguyên nhân của mệt mỏi kéo dài nên không có cách để ngăn ngừa sự xuất hiện của bệnh một cách hữu hiệu. Tuy nhiên, bạn vẫn nên phòng tránh bằng cách khám và điều trị triệt để các bệnh có liên quan đến sự phát sinh mệt mỏi kéo dài đã nêu trên đây.
BS. Ninh Thanh Tùng
Các nhà tâm lý học cho biết, có hai trạng thái bạo lực thể hiện qua hình ảnh trên các phương tiện truyền thông, đó là bạo lực hấp dẫn và bạo lực kinh hoàng. Loại thứ nhất thông qua những hình ảnh từ kinh nghiệm thực tế, để tạo nên mối lo sợ từ những loạt sự kiện gây xúc động mạnh.
Loại thứ hai tạo nên bởi tính kích động từ những âm thanh và hình ảnh phát thanh, làm tâm lý trở nên yếu ớt. Trẻ em từ 2 - 3 tuổi có khả năng cảm nhận về nhân vật trong thời gian ngắn khi xem những loại phim hoạt hình. Đối với trẻ từ 5 - 6 tuổi, lại có thể tách riêng cac hình ảnh kích động từ nhiều bối cảnh khác nhau để rồi tập trung lại thành một và ghi nhớ chúng trong đầu. Do khả năng về tư duy chưa được hoàn thiện nên trẻ rất dễ bị tác động bởi những hình ảnh này. Từ 7 - 12 tuổi, trẻ vẫn còn nhạy cảm nên còn dễ hấp thu những hình ảnh bạo lực để tìm sự khuây khỏa. Nếu trẻ bị đồng hóa bởi những nhân vật mang tính kích động, chúng sẽ có thái độ hung hăng và bùng phát nhiều hành vi phá phách. Thực tế, trẻ cần có nhu cầu trao đổi cùng cha mẹ hoặc những người lớn tuổi để giúp kềm chế những ảnh hưởng xấu từ hình ảnh bạo lực đối với chúng. Vấn đề ở đây là thái độ và lới ứng xử của người lớn như thế nào để bảo vệ cho trẻ. Không cho trẻ xem những loại phim có nội dung qua kinh dị và bạo lực, vì hình ảnh bao giờ cũng để lại nhiều ảnh hưởng mạnh trong tâm trí trẻ hơn là âm thanh. Vì thế, cha mẹ cần:
- Giải thích cho trẻ hiểu, những hình ảnh hư cấu trên phim chỉ là giả tạo, để chúng phân biệt được thật và giả.
- Tiếp cận với trẻ để giải thích cho chúng hiểu được, những hình ảnh bạo lực trên phim ảnh chỉ là giả tạo, và nắm bắt tâm lý trẻ, nếu có một sự kiện bạo lực nào xảy ra ở một nơi khác, thì chúng không phải sợ hãi vì hoàn toàn không liên quan đến chúng. Còn nếu xảy ra trong nước, hãy làm trẻ yên tâm bằng cách là đang có cha mẹ ở bên cạnh để bảo vệ chúng.
(Theo Parents)
HÀ TIÊN
Động kinh (ĐK) là một bệnh lý thần kinh tâm thần khá phổ biến, theo nhiều tác giả, ĐK chiếm khoảng 0,5 - 1,5% dân số. Tuy nhiên gần đây nhiều nhà nghiên cứu về ĐK nhận thấy rằng có 51-54% những người được chẩn đoán và điều trị ĐK thực sự không bị ĐK. Nhiều tình trạng bệnh lý có thể bị chẩn đoán nhầm là ĐK. Dưới đây xin nêu một số trạng thái bệnh lý dễ nhầm lẫn đó.
Ngất: Ngất có thể do nhiều nguyên nhân gây ra, xúc động mạnh, đứng lâu, đặc biệt nếu nhiệt độ môi trường quá nóng, rối loạn nhịp tim, đau. Trước cơn, bệnh nhân có cảm giác choáng váng. Người bệnh nhanh chóng hồi phục. Ngất có thể tái diễn và thương tích đôi khi có thể xảy ra. Người bệnh có thể xuất hiện giật cơ nhiều ổ, hoặc có thể gặp cơn ĐK giật cơ. Các tính chất của ngất do tim thường có thể khác nhau và đôi khi không có dấu hiệu nào báo trước cho người bệnh.
Co giật không ĐK: Thuật ngữ này được dùng để mô tả những cơn co giật không phải là ĐK mà có nguồn gốc tâm lý, thường dùng hơn thuật ngữ "co giật tâm căn". Các rối loạn này chiếm khoảng 20% tổng số bệnh nhân được nhận vào viện với chẩn đoán ĐK nhưng thật sự không có ĐK. Dù sao cũng cần lưu ý rằng những cơn co giật không ĐK có nguồn gốc tâm lý cũng xuất hiện (không thường xuyên) ở những người ĐK. Loại cơn này thường gặp ở phụ nữ, đặc biệt ở người có tiền sử gia đình bị rối loạn tâm thần.
Cơn tấn công hoảng sợ: Những cơn tấn công hoảng sợ dễ gặp ở những người có trạng thái lo âu và cảm giác này thường đi kèm với những triệu chứng cơ thể như là hồi hộp, khó thở, vã mồ hôi, sợ hãi, bất an. Tuy nhiên các triệu chứng này không giống các triệu chứng cơn ĐK thùy thái dương.
Cơn tăng thở: Đây là một loại rối loạn thường gặp và ít khi nhầm lẫn với ĐK. Những cơn tấn công thường xuất hiện trong trạng thái stress, thở dốc có thể gây ra cảm giác hoa mắt chóng mặt và thậm chí gây ra rối loạn định hướng hoặc mất ý thức. Bệnh nhân có thể bị đau ngực, khó thở, mờ mắt, dị cảm, chuột rút và mệt mỏi.
Trạng thái kích động: Trạng thái này xuất hiện đôi khi được cho là cơn xung động tâm thần vận động (cơn ĐK thùy thái dương).
Cơn ngừng thở: Những cơn này thường xuất hiện ở trẻ em dưới 6 tuổi và thường xuyên bị chẩn đoán nhầm với ĐK. Những cơn ngừng thở xanh tím xuất hiện khi đứa trẻ cáu giận hoặc không được đáp ứng các đòi hỏi. Đứa trẻ đang khóc xuất hiện ngừng thở, xanh tím và mềm nhũn, gọi hỏi không đáp ứng, đôi khi run và xuất hiện một chút co giật. Tình trạng không đáp ứng có thể kéo dài vài phút. Cơn ngừng thở có thể kèm theo chấn thương đầu nhẹ (do ngã). Đứa trẻ có thể không khóc nhưng bất ngờ mất ý thức và trở nên mềm nhũn. Giật cơ thường gặp như là hậu quả của thiếu ôxy não nhưng nhanh chóng hồi phục.
Rối loạn giấc ngủ: Có một số hiện tượng rối loạn giấc ngủ có thể nhầm lẫn với ĐK:
- Đi trong giấc ngủ (miên hành): Thường gặp ở trẻ, có đặc điểm là những hành vi tự động, đứa trẻ đang ngủ trở dậy đi lại hoặc tiến hành một số hành động nào đó.
- Hoảng sợ ban đêm: Cũng thường gặp ở trẻ. Đứa trẻ đang ngủ đột nhiên ngồi dậy kêu khóc hoặc la hét, vã mồ hôi, mắt mở to. Sau đó đứa trẻ trở lại bình tĩnh và tiếp tục giấc ngủ bình thường.
- Ác mộng và ngủ rũ: Đôi khi cũng dễ nhầm lẫn với ĐK.
Đau nửa đầu (Migraine): Có nhiều lý do để nhầm lẫn cơn đau nửa đầu với cơn ĐK. Ngất có thể xuất hiện trong thời gian của cơn đau Migraine, đặc biệt khi kèm theo nôn. Cơn Migraine hai bên có thể kèm theo mất ý thức và thường liên quan với nhiều triệu chứng khác, do đó dễ chẩn đoán nhầm với ĐK. Những triệu chứng thần kinh đi kèm và tiền sử gia đình của Migraine có thể giúp chẩn đoán phân biệt. Migraine được báo trước bởi rối loạn cảm giác và rối loạn thị giác có thể là nguyên nhân gây nhầm lẫn với ĐK cục bộ. Lưu ý rằng trong cơn đau Migraine có thể gặp hình ảnh kịch phát trên điện não đồ.
Cơn đột quỵ thoáng qua: Có thể gây ra mệt mỏi và các rối loạn cảm giác, do đó dễ nhầm lẫn với ĐK. Cơn đột quỵ thoáng qua thường kéo dài hơn cơn ĐK và hiếm khi mất ý thức. Hiện tượng rối loạn cảm giác ở ĐK có thể lan ra ở người có hành trình Jackson. Dấu hiệu này thường không có ở bệnh nhân đột quỵ thoáng qua. Thêm vào đó, đột quỵ thoáng qua giống với mất chức năng bao gồm: suy nhược, tê bì, mất thị trường, dị cảm.
Cơn mất nhớ: Mất nhớ toàn bộ thoảng qua thường gặp ở độ tuổi trung niên hay người già. Cơn thường xảy ra trong nhiều giờ và kèm theo bệnh nhân mất nhớ. Tuy nhiên họ còn có thể giao tiếp nhưng hay hỏi đi hỏi lại nhiều lần cùng một câu hỏi. Sau cơn bệnh nhân hồi phục hoàn toàn. Nguyên nhân chưa rõ ràng, cơn đau nửa đầu, ĐK, bệnh lý mạch máu não được cho là nguyên nhân. Nhưng thực tế bệnh lý ĐK ít liên quan. Các cơn mất nhớ thường ngắn, hay tái phát và thường xuất hiện lúc thức dậy vào buổi sáng.
Rối loạn vận động: Một loạt các rối loạn vận động có thể dễ nhầm lẫn với cơn ĐK Tíc đôi khi có thể nhầm với cơn giật cơ, cơn múa giật, múa vờn kịch phát là rối loạn đặc trưng bởi sự lặp đi lặp lại của rối loạn vận động và không kèm theo mất ý thức. Mặc dù không có bất thường điện não trong cơn nhưng tình trạng này có thể đáp ứng tốt với thuốc chống ĐK.
Hạ đường huyết: Trạng thái thường gặp của người bệnh đái tháo đường, đặc biệt ở những người sử dụng insulin hoặc uống thuốc hạ đường huyết. Đôi khi gặp ở những người có u tụy. Hạ đường huyết có thể gây ra buồn nôn, loạn nhịp tim, cơn co giật có thể xuất hiện.
Cơn rối loạn tiền đình: Do nhiều nguyên nhân gây ra, thường là kịch phát và dễ bị nhầm lẫn với cơn ĐK. Hiếm khi cơn rối loạn tiền đình có triệu chứng giống với cơn ĐK nhưng thường dễ nhầm lẫn với cơn ĐK thùy chẩm. Người bệnh có thể bị rối loạn thăng bằng, đau đầu và rối loạn thần kinh thực vật.
PGS.TS. Cao Tiến Đức
Theo cảnh báo của các nhà khoa học Hoa Kỳ, chứng mất ngủ vì bất kì lí do gì đều ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người bệnh, đồng thời tác động không nhỏ đến sự thay đổi tâm lý ở họ. Kết quả của sự thay đổi tâm lý bất thường này có thể biểu hiện ra bên ngoài, thông qua cách xử sự tiêu cực của người bệnh, thậm chí có thể dẫn tới nguy cơ tự tử gia tăng.
Nhóm các nhà khoa học thuộc Trường Đại học Michigan - Hoa Kỳ, trong nghiên cứu của mình đã tìm hiểu về nguyên nhân và quá trình diễn ra sự thay đổi thái độ xử sự của 5.692 người bệnh từng có biểu hiện muốn tự tử tại Hoa Kỳ. Họ được phân thành 3 nhóm cụ thể: nhóm 1 gồm những người bị mắc chứng mất ngủ trong thời gian dài, nhóm thứ 2 gồm những người thường xuyên có giấc ngủ chập chờn và nhóm thứ 3 gồm những người khó ngủ.
Sau khi xem xét tất cả các yếu tố có thể tác động đến giấc ngủ như: trạng thái căng thẳng, chứng bệnh liên quan đến thể chất, và các yếu tố xã hội khác… Các nhà khoa học đi đến kết luận: nhóm những người mắc chứng mất ngủ (insomnia) chính là những người có sự thay đổi tâm lý bất thường và tỉ lệ tự tử cao nhất.
Ở những người bị mất ngủ thường xuyên, não của họ bị tác động rất lớn và thường thiếu đi sự minh mẫn. Điều này dẫn tới khả năng giữ trạng thái cân bằng và khả năng kiểm soát suy nghĩ, hành động của người bệnh cũng bị xáo trộn. Quá trình này đặc biệt còn có liên quan đến một thành phần hóa học giúp cân bằng trạng thái tinh thần có tên gọi serotonin trong não. Việc thiếu ngủ khiến cho sự sản sinh serotonin trong não bị ảnh hưởng, khiến cho nồng độ serotonin bị thay đổi. Và hậu quả là gây rối loạn cho vùng não chức năng kiểm soát thái độ, khiến cho thái độ cư xử của người bệnh cũng thay đổi theo chiều hướng tiêu cực: dễ nổi cáu, nóng giận, buồn chán vô cớ…
TS. Daniel Freeman thuộc Viện nghiên cứu Thần kinh học – London – Anh cũng cho biết: chứng mất ngủ cũng khiến cho trạng thái thần kinh của người bệnh luôn ở trong tình trạng bị stress, căng thẳng, suy nhược, thiếu đi sự tư duy logic, và điều này thường đẩy người bệnh đi tới những suy nghĩ luẩn quẩn, kèm theo đó là những hành vi xử sự biến đổi bất thường…
(Theo UK)
MINH NGỌC
|
Không có nhận xét nào:
♦Mời bạn Nhận xét ,viết lời bình cho bài viết này!
♦ Bấm vào Xem trước [Preview] bên dưới khung nhận xét nếu muốn xem trước comment đã viết, trước khi post [đăng]. Tương tự, bấm vào Đăng ký qua email [Subscribe by email] để đăng ký theo dõi nhận xét của bài này.